Sự thống trị của các lãnh đạo cực kỳ tàn bạo và uy tín của họ có được cũng chỉ nhờ vào sự tàn bạo này. Có những cái tên như Robespierre, Marat cần phải được nhắc đến với một thái độ kính trọng, cũng có những cái tên khác như Cäsar, Augustus, Napoleon chỉ có thể nói ra trong sự phỉ báng. Ngôn từ cũng sống động tựa như ý tưởng.
Lớp lãnh đạo thứ hai, là những người có ý chí bền bỉ, mặc dù sự xuất hiện của họ ít hào nhoáng, nhưng họ có một ảnh hưởng mang nhiều ý nghĩa hơn nhiều. Ông ta cố gắng to giọng, cảnh mất trật tự lại càng gia tăng. Chính những tính cách chung này, bị điều khiển bởi sự vô thức, và số đông các thành phần bình thường của một chủng tộc đều có như nhau, sẽ là cái chung của đám đông.
Nó đã trở thành một phương tiện thông tin đơn giản và đã từ bỏ công việc truyền bá một ý tưởng hoặc một học thuyết nào đó. Người ta phải chú ý theo dõi nó như đã từng theo dõi tất cả các giáo điều. Ở các dân tộc Latinh khái niệm “dân chủ” trước hết mang ý nghĩa loại bỏ những ý chí và quyết tâm của cá nhân trước nhà nước.
Một con người độc lập có thể sẽ chấp nhận sự đối kháng và tranh cãi, nhưng đám đông không bao giờ cho phép như vậy. Một đám đông người Pháp coi trọng trước hết là sự bình đẳng, còn đám đông người Anh thì lại coi trọng trước hết là sự tự do. Một chút ít ỏi mà chúng ta có thể nghiên cứu về những sức mạnh đó, cần phải được tìm trong tiến trình phát triển chung của các dân tộc và không phải trong các sự việc riêng biệt, mà ở đó sự phát triển như vậy có vẻ như đã thể hiện ra.
Ta phải bắt đầu với các điều luật và thể chế của lần lượt từng dân tộc một, để chỉ ra xem nó thể hiện đến mức độ nào các đòi hỏi của một chủng tộc và tại sao phải không nên thay đổi một cách thô bạo. Đám đông dễ trở thành đao phủ nhưng cũng dễ trở thành kẻ tử vì đạo. Nó đã trở nên bất khả xâm phạm giống như những giáo lý một thời của nhà thờ.
Các dân tộc chủ yếu được dẫn dắt bởi tâm hồn giống nòi, có nghĩa là bởi sự tích tụ của các yếu tố di truyền mà kết quả của sự tích tụ đó là tạo nên tâm hồn của giống nòi. Không bao giờ họ mặc cả sinh mạng của mình trong một cuộc khởi nghĩa; mới chỉ vài năm cách đây không lâu, một ông tướng (tướng Boulanger) bỗng nhiên được nhân dân yêu mến, một khi ông ta đòi hỏi, dễ dàng có hàng ngàn người sẵn sàng chém giết vì sự nghiệp của ông ta. Cũng thế, những nguyên thủ quốc gia trong mọi thời đại ở tất cả các nước, là những người chiếm được quyền thống trị tuyệt đối, đều coi trí tưởng tượng của dân chúng là các cột trụ của quyền lực.
Cho đến đây nền văn hóa vẫn còn tỏ ra sáng lạn bởi nó vẫn còn giữ được cái vẻ bề ngoài từng được tạo nên từ một quá khứ lâu dài, nhưng thực ra nó đã là một ngôi nhà đã mục ruỗng, không còn có gì để chống đỡ, và sẽ sụp đổ tan tành ngay từ cơn bão đầu tiên. Một nhà văn đã viết những dòng sau về tầm ảnh hưởng của ông ta: Người cộng hòa nào bị đối thủ từ chối không chấp nhận coi như một người theo chủ nghĩa liên bang, liền cảm thấy đó như là một sự lăng nhục bằng những câu chửi chết người.
Sự tác động vào từng thành viên của đám đông sẽ đặc biệt mạnh, nếu như ta khêu dậy được ở họ những tình cảm về niềm kiêu hãnh và danh dự, về tôn giáo và tổ quốc. Một đám đông người Anh hoặc người Mỹ ngược lại không biết đến nhà nước và chỉ dựa vào sức lực của chính mình. Không có gì trong số đó có chiều hướng lâu dài.
Cho dù cái ý tưởng được bảo vệ hoặc cái mục đích theo đuổi nhạt nhẽo như thế nào, trong sự chống lại niềm tin của họ tất cả những gì lôgic đều phải thất bại. Theo bản năng đám đông đã nhận ra ở con người đầy niềm tin này một vị chúa tể mà họ cần đến. Nhận thức được một cách sâu sắc tầm quan trọng của nhiệm vụ được trao, trước hết họ đã tự lập nên cái gọi là tòa án, và điều này lập tức thể hiện cái trí tuệ hạn hẹp, và cũng là cái cảm nhận rất chi hạn chế về luật pháp của đám đông.
Với sự gia tăng ngày càng lớn của sự vô cảm và bất lực của công dân đã dẫn tới bắt buộc phải gia tăng hơn nữa tầm quan trọng của chính phủ. Nhưng đối với các vấn đề chung, như sự hạ bệ một bộ trưởng, sự bổ sung một thuế mới v. Nhà tâm lý học sắc sảo Davey cung cấp cho chúng ta một thí dụ kỳ lạ cho trường hợp trên, nó cũng đã được thuật lại trong “Annales des Sciences psychiques” vì vậy cũng đáng được trình bày tại đây.