Những câu hỏi đơn giản kiểu trẻ con mà các triết gia hỏi là gì? Khi viết ra, dường như chúng chẳng đơn giản tí nào bởi vì trả lời chúng không dễ. Điều này không có nghĩa là sử gia đã bịa ra những thông tin lịch sử giống như thi sĩ hay người kể chuyện. Nhưng một phóng viên dù không thuật lại những điều anh ta cho là giả dối vẫn có thể có nhầm lẫn.
Mỗi câu hỏi thường có từ hai câu trả lời trở lên và khi đó, các câu trả lời phải được sắp xếp theo từng cặp đối nghịch. Chúng ta sẽ coi chúng như một tập hợp quy ước nhằm đảm bảo độc giả tích cực đáp lại ý kiến của tác giả một cách lịch sự. Một tác phẩm mỹ thuật được coi là đẹp không phải vì nó được tinh lọc hay hoàn thành, mà vì tự thân nó đã là một kết thúc.
Không giống sách hướng dẫn, sách triết học quy phạm dùng các từ phổ biến mô tả phương thức nên sử dụng để đạt các mục tiêu này. Trên thực tế, nếu người ta đọc một cuốn sách để tăng cường hiểu biết, hay có thêm thông tin, thì họ cũng có thể đọc cuốn đó để giải trí. Một bài tóm tắt không bao giờ thay thế được quá trình đọc, nhưng nó có thể giúp bạn xác định xem mình có muốn, hay cần phải đọc một cuốn sách hay không.
Đổi lại, họ cảm thấy hài lòng sự hài lòng khó có thể có được khi đọc các sách khác. Thông thường, trẻ em có thể thành thục bốn cấp độ đọc sơ cấp với sự giúp đỡ của các giáo viên. Thuật ngữ tạo nên nhận định.
Bạn không thể nhìn thấy, chạm vào hay tưởng tượng ra khía cạnh chung chung đó. Việc đọc các tác phẩm triết học có những khía cạnh đặc biệt, liên quan đến sự khác nhau giữa triết học và khoa học. Đứa trẻ nào chưa sẵn sàng đọc sẽ cảm thấy sợ hãi nếu người ta cứ cố dạy nó, và nó có thể giữ mãi nỗi ám ảnh đó cho đến khi đi học, thậm chí đến khi đã trưởng thành.
Đó cũng là cách sắp xếp dễ nhất và nhờ nó mà công việc biên soạn bách khoa toàn thư đã đạt được rất nhiều bước tiến lớn. Những cuốn sách khoa học vĩ đại thường dễ đọc hơn rất nhiều những cuốn khác vì các tác giả đã cẩn thận giúp bạn hiểu được những thuật ngữ, xác định rõ các nhận định chính và trình bày các luận điểm chủ chốt. TỪ LÀ THÀNH PHẦN CẤU TẠO NÊN CÂU - mỗi một từ đơn giữ một vai trò ngữ pháp nhất định trong một cụm từ hoặc câu.
Trong khi vừa phải xây dựng một hệ thống thuật ngữ, chúng ta cũng đồng thời đối mặt với nhiệm vụ tạo dựng một loạt nhận định mang tính trung lập. Nếu thuật ngữ và từ hoàn toàn giống nhau, bạn chỉ cần tìm những từ quan trọng trong cuốn sách để thống nhất với các thuật ngữ. Một tác giả có thể thiếu những thông tin mà tác giả khác có; mắc lỗi trong giả thuyết mà các tác giả khác không phạm phải; có cùng một cơ sở lý lẽ nhưng lại lập luận thiếu thuyết phục hơn các tác giả khác.
Người nào nói anh ta biết mình nghĩ gì nhưng lại không thể thể hiện ra thường là người không biết mình nghĩ gì. Ví dụ, sau khi đọc hết Phần 2 cuốn sách này, nếu bạn nhất trí rằng rất đáng bỏ sức ra để đọc phân tích và chấp nhận coi các quy tắc đọc như một công cụ trợ giúp mục đích đó thì bạn phải bắt đầu đọc theo cách mà chúng tôi miêu tả. Nhưng cách sắp xếp này, mặc dù tạo nên cấu trúc xương sống của một cuốn bách khoa toàn thư, lại ẩn sau hình thức sắp xếp các dữ liệu theo trật tự bảng chữ cái.
Đó là: Mục tiêu của tác giả khi viết sách là gì? Tác giả đã gợi ý sử dụng phương tiện nào để đạt được những mục tiêu đó? Trả lời được hai câu hỏi này bạn mới hiểu và phê bình được một cuốn sách thực hành. Sau khi đánh dấu các từ khó hiểu, bạn cần phải thực hiện tiếp bước thứ hai theo quy tắc 5 của quá trình đọc phân tích. Không thể bảo đảm tính khách quan biện chứng tuyệt đối chỉ bằng việc tránh đưa ra những nhận xét rõ ràng về tính chân thực của các ý kiến trái ngược nhau.
Làm được tất cả những việc này mới có thể nói là ta đã phân tích xong cuộc thảo luận về vấn đề ta đang quan tâm và ta đã hiểu được nó. Bước thứ ba và cũng là bước cuối cùng tương đối dễ dàng. Sẽ là sai lầm nếu cho rằng học bằng khám phá là cách học chủ động, còn học nhờ hướng dẫn là cách học bị động.